Nhạc Lý Căn Bản-CHƯƠNG II-III -IV

CHƯƠNG II KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN TRƯỜNG ĐỘ A. trưng đ tương đỐi :
1. Để ghi trường độ tương đối giữa các âm thanh, người ta dùng các dấu nhạc với 7 hình dạng khác nhau.
- Dấu tròn ( w )lâu bằng 2 dấu trắng ( h )
- Dấu trắng ( h ) lâu bằng 2 dấu đen( q )
- Dấu đen ( q ) lâu bằng 2 dấu móc đơn ( e )
- Dấu móc đơn ( e ) lâu bằng 2 dấu móc đôi ( x )
- Dấu móc đôi ( x ) lâu bằng 2 dấu móc ba ( r )
- Dấu móc ba ( r ) lâu bằng 2 dấu móc tư (  )
Như vậy một dấu tròn : 2 trắng : 4 đen : 8 móc đơn : 16 móc đôi : 32 móc ba : 64 móc tư.
2. Dấu lặng : là những ký hiệu cho biết phải ngưng, không diễn tấu âm thanh trong một thời gian nào đó. Các dấu lặng trong thời gian tương ứng với dạng dấu nhạc nào, thì cũng có tên gọi tương tự.

3. Dấu chm : là ký hiệu đi sau dấu nhạc, hoặc dấu lặng, có giá trị bằng nửa trường độ ký hiệu đi trước nó.
Thí dụ :
q . = q + e
h . . = h + q + e
4. Dấu nối : là đường vòng cung nối liền nhiều dấu nhạc với nhau. Có 2 loại :
4.1. Dấu nối 2 dấu nhạc cùng cao độ làm kéo dài trường độ dấu nhạc đầu, bằng tổng số trường độ của cả hai dấu nhạc.
h + h = w
4.2. Dấu nối nhiều dấu nhạc khác cao độ (còn gọi là dấu luyến) cho biết phải diễn tấu các dấu nhạc đó liền tiếng với nhau.
5. Dấu lưu (Dấu miễn nhịp) : là nửa vòng cung nhỏ có một chấm ở giữa U đặt trên hoặc dưới ký diệu âm nhạc nào thì cho nó được kéo dài bao lâu tuỳ ý.

6. Ô nhịp : là phần khuông nhạc được giới hạn bởi 2 vạch nhịp.
Trong nhạc mới, thường người ta chia bài nhạc thành nhiều ô nhịp. Các ô nhịp có tổng số các ký hiệu bằng nhau. Muốn biết mỗi ô nhịp có trường độ bao nhiêu ta căn cứ vào số loại nhịp (số tiết nhịp) viết ở đầu bài nhạc, gọi tắt là số nhịp.

7. Số nhịp : là một phân số cho ta biết phải chia dấu tròn ra làm mấy phần, và tử số cho ta biết trong mỗi ô nhịp có mấy phần như vậy. Thí dụ 2/4 : dấu tròn chia làm 4 phần, mỗi phần bằng một dấu đen và trong mỗi ô nhịp ta có 2 dấu đen hoặc các ký hiệu tương đương hai dấu đen (xem thí dụ 9).
8. Phách : là đơn vị thời gian trong âm nhạc, giống như bước chân người đi trong không gian. Nhờ phách mà ta cảm nhận được sự chuyển động của âm thanh trong thời gian.
8.1. Phách chia 2 : là loại phách có thể chia ra 2 phần đều nhau.
Thí dụ : Trong loại nhịp 2/4, mỗi ô nhịp có hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen. Dấu đen này có thể chia thành hai dấu móc đơn :
q = e e
Loại nhịp gồm phách chia 2 gọi là loại nhịp chia 2 (nhị phân) hoặc nhịp đơn.
8.2. Phách chia 3 : Là loại phách có thể chia ra 3 phần đều nhau.
Thí dụ : Trong loại nhịp 6/8 gồm hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen chấm. Phách này có thể chia thành 3 dấu móc đơn :
q . = e e e
Loại nhịp gồm phách chia 3 gọi là loại nhịp chia 3 (tam phân) hoặc loại nhịp kép.
9. Các nhóm dấu bất thường :
9.1. Liên ba : Là 3 dấu nhạc có trường độ bằng nhau, nhưng khi diễn tấu thì trường độ của chúng bằng trường độ 2 dấu nhạc cùng hình dạng.

9.2. Liên năm, liên sáu, liên bảy : Là diễn tấu 5, 6 hoặc 7 dấu thay vì chỉ phải diễn tấu 4 dấu cùng hình dạng.

9.3. Liên hai : là 2 dấu nhạc có trường độ bằng nhau nhưng được diễn tấu trong thời gian bằng 3 dấu cùng hình dạng.

Nói cách khác là dấu nhạc có chấm (loại phách chia 3) thay vì được chia 3 như thường lệ thì chỉ được chia 2 thôi.
9.4. Liên tư : Là diễn tấu 4 dấu thay vì cần diễn 6 dấu cùng hình dạng.

10. Các ký hiệu dùng để lặp lại :
10.1. Lặp lại một âm hình giai điệu nào đó trong cùng một ô nhịp, thay vì viết ra cả thì chỉ cần viết 1 lần rồi ghi các vạch xiên chỉ trường độ.

10.2. Một âm thanh hoặc một hợp âm cần nhắc lại thì ghi tổng số trường độ và thêm các gạch chỉ trường độ phải lặp lại :

10.3. Lặp lại luân phiên nhiều lần âm thanh hoặc hợp âm (trémolo)

10.4. Lặp lại nguyên 1 hoặc 2 ô nhịp :

10.5. Lặp lại một đoạn nhạc : dùng dấu hồi đoạn ] } (Td 18a)
10.6. Lặp lại một đoạn dài, hoặc cả bài : Dùng dấu hồi tống @ (Td 18b)

Khi phần cuối đoạn lặp lại có khác biệt với phần cuối đoạn đầu thì người ta ghi dấu ngoặc vuông với số 1 hoặc chữ a trên phần khác biệt của đoạn đầu, và ghi dấu ngoặc vuông với số 2 hoặc chư b trên phần cuối của đoạn lặp lại.

Lần đầu diễn theo số một (còn gọi là volta 1) cho đến dấu hồi tống thì lặp lại lần 2, bỏ volta 1, nhảy qua volta 2.
Người ta có thể thay dấu hồi tống bằng chữ DC (Da Capo nghĩa là trở lại từ đầu. Da Capo al fine = Trở lại từ đầu cho đến chỗ TẬN của bài).

Bài nhạc nào có đoạn kết riêng, gọi là CODA thì người ta ghi dấu A hoặc để báo hiệu chỗ phải sang đoạn kết. Dấu báo kết A … được ghi 2 lần, lần đầu thường kèm theo chữ Al Coda (sang đoạn kết), lần hai ghi ngay đầu đoạn kết với chữ CODA. (Td 19c)
B. trưng đỘ TUYỆT ÐỐI:
Muốn biết một âm thanh phải kéo dài bao nhiêu giây, người ta phải dùng tới những ký hiệu khác để diễn tả tốc độ của các âm thanh, còn gọi là nhịp độ của âm thanh (Tempo).
Ký hiệu ghi nhịp độ đều đặn : các chữ ghi nhịp độ thường cho ta 3 mức độ chính, đó là vừa, chậm và nhanh. Muốn chính xác hơn, người ta ghi thêm số phách hoặc số dấu nhạc phải diễn tấu trong một phút gọi tắt là số nhịp đoä.
1.1 CHỮ VIẾT Ý NGHĨA SỐ NHỊP ĐỘ
Nhịp độ chậm Largo Chậm rãi 40-60
Larghetto Bớt chậm rãi 60-66
Lento Chậm
Adagio Chậm 66-76
Grave Trịnh trọng
Nhịp độ vừa Andante Khoan thai 76
Andatino Bớt khoan thai 108
Moderato Vừa 108-120
Allegro Moderato Nhanh vừa 120
Allegretto Chưa nhanh lắm
Nhịp độ nhanh Allegro Nhanh 120-168
Vivace Khá nhanh
Presto Hối hả, rất nhanh 168
Prestissimo Cực nhanh 208
1.2. Người ta còn thêm các chữ để nói rõ sắc thái hơn như :
Molto : Rất
Assai : Rất
Non troppo : Không quá
Non Tanto : Không đến thế
Sempre : Luôn luôn (Sempre marcato : Luôn luôn rời mạnh)
Meno : Ít hơn (Meno mosso : Kém linh hoạt hơn)
Pìu : Hơn (Pìu andante : nhanh hơn Andante)
Poco : Ít, một chút (Poco a poco : Từ từ)
Quasi : Gần như.
2. Ký hiệu ghi nhịp độ thay đổi :
2.1. Tăng nhịp độ :
Accelerando (Accel.) : Nhanh dần lên
Animando : Linh động, hào hứng
Stretto : Dồn dập, gấp rút
2.2. Giảm nhịp độ :
Ritardando (Ritard.) : Chậm lại
Rallentando (Rall.) : Chậm dần
Allargando (Allarg.) : Mở rộng ra, giãn ra.
Ritenuto (Rit.) : Giữ lại, ghìm lại
Poco lento : Hơi chậm.
2.3. Nhịp độ tư do :
Ad libitum (ad lib.) : Nhịp độ tuỳ ý
A piacere : Tuỳ thích
Senza tempo : Không cần giữ nhịp
Rubato : Lơi nhịp
2.4. Vào nhịp độ bắt buộc :
Tempo : Vào nhịp (sau một đoạn nhạc ad lib.)
A tempo, Tempo primo : Trở về nhịp độ ban đầu
(AT), (1 Tempo)
L’istesso tempo : Giữ y nhịp độ cũ dù có thay đổi số nhịp, nghĩa là một phách ở loại nhịp trước vẫn bằng 1 phách ở loại nhịp sau.
Thí dụ 2/4 đổi qua 6/8 thì q trong 2/4 = q . trong 6/8

Nhạc Lý Căn Bản-CHƯƠNG III


CHƯƠNG III
KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CƯỜNG ĐỘ
1. Các chữ dùng để ghi cường độ thường dùng là
Pianissimo (pp) : Rất nhẹ
Piano (p) : Nhẹ
Mezzo-Forte (mf) : Mạnh vừa
Forte (f) : Mạnh
Fortissimo (ff) : Rất mạnh
Có khi người ta còn dùng ppp để chỉ cực nhẹ và fff để chỉ cực mạnh

2. Các chữ hoặc ký hiệu dùng để báo hiệu thay đổi cường :
Crescendo (Cresc.) : Mạnh dần lên
Decrescendo (decresc.) : Nhẹ dần lại
Diminuendo (dim.) : Bớt lại
Morendo (mor.) : Lịm dần (thường dùng cuối đoạn, cuối bài)
Smorzando (Smor.) : Tắt dần
Subito forte (Sf.) : Mạnh đột ngột
Sforzando (Sfz.) : Nhấn buông, nhấn mạnh rồi nhẹ ngay (fp)
Marcato (>) : Mạnh mà rời

Staccato (dấu chấm trên dấu nhạc) : Nhẹ mà rời

Sostenuto (gạch ngang trên dấu nhạc) : Cẩn trọng, nâng niu (pfp)

Sotto voce : Hát nửa tiếng, êm nhẹ
Dolce : Dịu dàng, nhẹ nhàng
Ngoài ra, để chỉ phải liên kết các dấu nhạc mạnh dần hoặc nhẹ dần một cách liên tục, không rời rạc, người ta dùng chữ Legato (liền tiếng, liền giọng).

3.Phân loại cường độ:
Có 2 cách phân định cường độ
3.1.Cường độ cố định: là cường độ được qui định trước theo nguyên tắc "Phách đầu mạnh,phách cuối nhẹ", mà không cần để ý đến giai điệu cũng như ý nghĩa của nó.
Cụ thể -trong loại nhịp 2 phách: phách 1 mạnh, phách 2 nhẹ
-trong loại nhịp 3 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 nhẹ;
-trong loại nhịp 4 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 mạnh vừa, phách 4 nhẹ. Loại cường độ nầy thường dùng cho nhạc vũ đạo, quân hành, sinh hoạt, có tính cách bình dân đaị chúng, hoặc dùng cho người mới học nhạc để tập luyện giữ đúng nhịp. Nó có tính cách máy móc vì không để ý đến ý nghĩa của bài nhạc.
3.2.Cường độ diễn cảm: là cường độ do tiết tấu hoặc do ý nghĩa lời ca gợi ý. Chính loại cường độ nầy mới tạo "hồn" cho âm nhạc. Cần học phân tích tiết tấu thì mới biết phân phối cường độ sao cho phù hợp với từng dấu nhạc, từng nét, từng vế, từng câu, từng đoạn, từng bài nhạc.

4. Khi tác giả ghi các ký hiệu về cường độ thì đó cũng chỉ mới là hướng dẫn sơ khởi cho từng chỗ, từng đầu câu mà thôi, chứ không thể ghi chi tiết cường độ của tất cả mọi dấu nhạc trong câu trong bài được. Dù ghi hay không ghi ký hiệu cường độ, chúng ta cũng phải dựa trên tiết tấu của từng câu, từng đoạndựa trên ý nghĩa lời ca để phân phối cường độ cho xứng hợp, vì cường độ là yếu tố chủ chốt làm cho bài nhạc có hồn, có sinh khí. Người ca hát có hồn, có tâm tình là người biết dùng cường độ đúng lúc, đúng nơi. Chúng ta không nên dùng cách diễn tấu máy móc của các loại nhạc vũ,nhạc quân hành, nhạc sinh hoạt để diễn tấu các loại nhạc khác, đòi hỏi mức thưởng ngoạn cao hơn.
Nhạc Lý Căn Bản-CHƯƠNG IV
CHƯƠNG IV
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CAO ĐỘ
A. QUÃNG NHẠC:
1. Định nghĩa : Quãng nhạc là khoảng cách âm thanh giữa 2 dấu nhạc. Tên quãng được gọi bằng số. Từ dấu nhạc đầu tiên đến dấu nhạc cuối có bao nhiêu bậc cơ bản thì là quãng bấy nhiêu.
Thí dụ : Đô-Mi : Có 3 bậc là đô, rê, mi, nên gọi là quãng 3.
2. Tính chất các quãng : Ngoài tên gọi bằng số, các quãng nhạc còn có tính chất đúng, trưởng, thứ, tăng, bội, giảm tuỳ theo số nửa cung được thêm hay bớt trong cùng một quãng nhạc.
2.1. Quãng 2 gồm 1 nguyên cung được gọi là q.2 Trưởng (đô-rê, rê-mi …).
Quãng 3 gồm 2 nguyên cung được gọi là q.3 Trưởng (đô-mi, fa-la, xon-xi, rê-fa# …).
Quãng 4 gồm 2 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.4 đúng (đô-la, rê-xon …).
Quãng 5 gồm 3 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.5 đúng (đô-xon, rê-la, mi-xi …).
Quãng 6 gồm 4 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.6 Trưởng (đồ-lá, fa-rế …).
Quãng 7 gồm 5 nguyên cung và 2 nửa cung được gọi là q.7 Trưởng (đô-xí, fa-mí …).
Quãng 8 gồm 5 nguyên cung và 2 nửa cung được gọi là q.8 đúng (đồ-đố, rề-rế …).
Lưu ý : trong thang âm Đô Trưởng, nếu tính từ Đô trở lên, ta sẽ có các quãng Trưởng hoặc đúng mà thôi.
Đồ-rê : q.2T ; Đồ-mi : q.3T ; Đồ-fa : q.4đ ; Đồ-xon : q.5đ ;
Đồ-lá : q.6T ; Đồ-xí : q.7T ; Đồ-đố : q.8đ.
2.2. Thứ tự tính chất các quãng tính từ nhỏ đến lớn như sau :
Bội giảm – giảm – thứ – trưởng – tăng – bội tăng
Riêng các quãng đúng không gọi là thứ, trưởng, mà chỉ có giảm, bội giảm hoặc tăng, bội tăng mà thôi. Như vậy ta có :
q.2 giảm (đồng âm), 2t, 2T, 2 tăng …
q.3 giảm, 3t, 3T, 3 tăng …
q.4 giảm, 4đ, 4 tăng …
q.5 giảm, 5đ, 5 tăng …
q.6 giảm, 6t, 6T, 6 tăng …
q.7 giảm, 7t, 7T, 7 tăng …
q.8 giảm, 8đ, 8 tăng.
2.3. Trong thang âm Đô trưởng với 7 dấu cơ bản, ta có thể tạo thành 7 quãng 2, 7 quãng 3, 7 quãng 4, 7 quãng 5, 7 quãng 6, 7 quãng 7, 7 quãng 8. Nhưng tính chất của chúng khác nhau :
– Q.2 : Có 5q2T (Đồ-rê, rê-mi, fa-xon, xon-la, la-xi) và 2q2t (mi-fa, xi-đô)
– Q.3 : Có 3q3T (Đô-mi, fa-la, xon-xi), và 4q3t (rê-là, mi-xon, la-đô, xi-rê)
– Q.4 : Có 6q4đ (Đô-fa, rê-xon, mi-fa, xon-đô, la-rê, xi-mi) và 1q4 tăng (fa-xí)
– Q.5 : Có 6q5đ (Đô-xon, rê-la, mi-xi, fa-đô, xon-rê, la-mí) và 1q5 giảm (xi-fá)
– Q.6 : Có 4q6T (fà-rế, xòn-mí, đồ-lá, rề-xí) và 3q6t (mì-đố, la-fá, xì-xón)
– Q.7 : Có 2q7T (fà-mi, đồ,mí) và 5q7t (rề-đô, mì-rế, xòn-fá, là-xón, xì-lá)
– Q.8 : Có 7q8đ (đồ-đố, rề-rế, mi-mí, fa-fá, xon-xón, la-lá, xi-xí, đô-đố).
3. Phân loại :
3.1. Quãng giai điệu : Hai âm thanh vang lên kế nhau, còn quãng hoà điệu là hai âm thanh vang lên cùng một lúc.
3.2. Quãng đơn : là quãng 8 trở xuống, còn quãng képquãng ngoài quãng 8 (số lớn hơn quãng 8). Tính chất của quãng kép cũng giống như tính chất của quãng đơn tương ứng. Muốn biết quãng đơn tương ứng, ta lấy quãng kép trừ đi 7. Thí dụ quãng 9 – 7 = quãng 2.
TD 20
3.3. Quãng lên : Khi dấu đầu thấp hơn dấu cuối.
Quãng xuống : Khi đấu đầu cao hơn dấu cuối.
3.4. Quãng thường : Là một quãng có sẵn, nếu ta lấy dấu thấp nâng lên một quãng 8 hoặc lấy dấu cao hạ xuống một quãng 8, ta sẽ có quãng đảo của nó.
Đồ3 và mi3 là quãng thường, nếu đảo đồ3 lên đô4 ta có quãng đảo đố4-mi3 hoặc nếu đảo mi3 xuống 1 quãng 8, ta sẽ có quãng đảo đồ3-mi2.
Nguyên tắc 1 : Tổng số quãng thường với quãng đảo tương ứng với nó là 9. Vậy muốn biết quãng đảo ta lấy 9 trừ đi số quãng thường.
Thí dụ : Ta có quãng 2 ——- quãng đảo là (9 – 2) = 7
Ta có quãng 3 ——- quãng đảo là (9 – 3) = 6
Ta có quãng 4 ——- quãng đảo là (9 – 4) = 5

Nguyên tắc 2 : Tính chất của quãng đảo và quãng thường như sau :
Đảo
Đ Đúng
T t
tg giảm


3.5. Quãng thuận là quãng hoà điệu cho ta cảm giác êm tai, còn quãng nghịch là quãng hoà điệu cho ta cảm giác chói tai. Quãng thuận hoàn toàn gồm quãng 1 (đồng âm), quãng 8đ, quãng 5đ, quãng thuận vừa phải gồm q 3T, 3t, 6T, 6t. Quãng hỗn hợp (nửa thuận nửa nghịch) gồm quãng 4đ, còn tất cả các quãng hoà điệu khác đều là quãng nghịch.
3.6. Các quãng cơ bản (hay diatonic) : là những quãng tạo thành bởi các âm cơ bản (không chuyển hoá) của cùng một thang âm. Trong thang âm Đô Trưởng, ta có 14 loại quãng cơ bản sau :
1. Q.1 đúng (đồng âm) = 0 cung
2. Q.2 thứ = 1/2 cung
3. Q.2T = 1 cung
4. Q.3 thứ = 1 cung 1/2
5. Q.3T = 2 cung
6. Q.4đ = 2 cung 1/2
7. Q.4 tăng = 3 cung
8. Q.5 giảm = 3 cung
9. Q.5 đúng = 3 cung 1/2
10. Q.6t = 4 cung
11. Q.6T = 4 cung 1/2
12. Q.7t = 5 cung
13. Q.7T = 5 cung 1/2
14. Q.8đ = 6 cung
Còn tất cả các loại quãng tăng hoặc giảm khác đều gọi là quãng Chromatic.
3.7. Quãng trùng âm là 2 quãng phát ra những âm thanh giống nhau, nhưng tên gọi các dấu làm thành quãng khác nhau :
Thí dụ : Quãng 2 tăng và quãng 3 thứ là 2 quãng trùng âm (cùng có 1 cung 1/2)
Quãng 7 giảm và quãng 6 Trưởng là 2 quãng trùng âm (cùng có 4 cung 1/2)
hoặc : Quãng fa# – xon# (2T) trùng âm với xonb-lab (2T)
Quãng fa# – xi (4đ) trùng âm với xonb – đôb (4đ).
TD 23 B. thang âm và hệ thống âm thanh
1. Thang âm là chuỗi các âm thanh liên tiếp nhau trong vòng một quãng 8. Có nhiều loại thang âm khác nhau tuỳ theo số lượng các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm có 5 bậc cơ bản, thang thất âm có 7 bậc cơ bản) và tuỳ theo khoảng cách độ cao giữa các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm thông thường và ngũ âm ngoại thường, thang thất âm trong bình ca và thất âm trong nhạc cổ điển).
TD 24
2. Thang ngũ âm thông thường : là thang âm gồm năm dấu nhạc phát sinh do chu kỳ quãng 5 liên tiếp. Dấu đầu của chu kỳ quãng 5 đó là tên gọi của thang âm.
Thí dụ : thang ngũ âm Đô : Đô-xon-rê-la-mi.
TD 25
Thu gọn các dấu lại trong một bát độ, ta sẽ có đô-rê-mi-xon-la.
2.1. Trong thang ngũ âm Đô này, ta thấy có 3 dấu nhạc đi gần nhau hơn cả, đó là đô-rê-mi cách nhau từng cung một, tiếng chuyên môn gọi là pycnon (nhóm 3 dấu liền nhau). Người ta căn cứ trên pycnon mà đặt tên cho vị trí. Dấu đầu của pycnon là Đô thì ta gọi là thang âm ở vị trí Đô (dấu đô là dấu phát sinh ra thang âm thì đồng thời cũng là tên của vị trí thang âm).
2.2. Thang ngũ âm thông thường có thể viết ra 5 dạng khác nhau :
– Dạng 1 : Đô-rê-mi – xon-la (đô)
– Dạng 2 : Xon-la – đô-rê-mi (xon)
– Dạng 3 : Rê-mi – xon-la - đô (rê)
– Dạng 4 : La - đô-rê-mi – xon (la)
– Dạng 5 : Mi – xon-la – đô-rê (mi).
Như vậy “Dạng” chỉ là một cách liệt kê thang âm bắt đầu bằng bất cứ dấu nào.
TD 25a (5 dạng)
Khi trong mỗi dạng đã có một sự sắp xếp, tổ chức cung bậc (có bậc chính, bậc phụ) ta gọi đó là một hệ thống.
TD 25b (3 hệ thống)
2.3. Trong dân ca Việt Nam, người ta thường xuyên dùng 3 hệ thống, mà nhạc sĩ Hải Linh tạm đặt tên bằng số là hệ thống 1, 2, 3 (tương ứng với Vui, Thương, Mừng, theo tên gọi các mùa Phụng Vụ trong đạo Công Giáo).
– Hệ thống 1 : Đô-rê-mi-xon-la (đô), (trong đó đô-xon là dấu trụ chính, mi là dấu trụ phụ, rê-la là dấu phụ).
TD 26a

TD 26b
– Hệ thống 2 : Lađoâ – rê – mi – xon – (La), (trong đó la – mi là trụ chính, đô là trụ phụ, rê – xon là dấu phụ).
TD 27
– Hệ thống 3 : Reâ-mi-xon-la-đô (Rê), (trong đó rê-la là trụ chính, xon là trụ phụ, mi-đồ là dấu phụ).
TD 28




· Bài này dùng kỹ thuật ‘phong phú hóa’ lời thơ bằng những tiếng đệm có nghĩa và không có nghĩa : ‘ơi a’ ; ‘ơ’ ; ‘tình tình’…
a) Các dấu trụ đứng cách nhau quãng 5 đúng hoặc 4 đúng, làm thành bộ sườn vững chắc cho hệ thống. Ngoài ra có dấu trụ phụ nằm giữa quãng 5 (xem thí dụ 25b).
b) Mỗi hệ thống có cơ cấu cung bậc khác nhau, nên cũng cho chúng ta một cảm giác âm thanh khác nhau :
n Hệ thống 1 : thường vui tươi, sáng sủa (như trong mùa vui (GS) của Công Giáo) (có tính cách tương tự thể trưởng của thất âm).
n Hệ thống 2 : thường buồn, tối (như trong mùa thương của Công Giáo) (có tính cách tương tự thể thứ tự nhiên của thất âm).
n Hệ thống 3 : thường oai hùng, khải hoàn (như trong mùa mừng của Công Giáo) (không có gì tương đương với nó ở trong thất âm cả, có tác giả gọi nó là Siêu trưởng (Super-majeur).
c) Trong dân ca, chỉ có một số ít bài hát ở trong một hệ thống thuần tuý. Đa số là những bài pha trộn 2 hoặc 3 hệ thống với nhau, gọi là loại bài chuyển hệ.

TD 29

2.4 Ngoài ra, đa số các bài dân ca không nằm mãi trong một vị trí mà thường thay đổi vị trí, gọi là bài chuyển vị. Thí dụ đang ở vị trí đô thì chuyển sang vị trí Fa (fa-xon-la-đô-rê) (xem bài Lý cây đa) hoặc chuyển lên vị trí xon (xon, la, xi, rê, mi), (xem bài 36 thứ chim …). Từ vị trí ban đầu thường thấy chuyển đi 4 vị trí khác, chuyển lên 2 cỡ và xuống 2 cỡ.
Thí dụ : Vị trí khởi đầu : Vị trí Đô (Đô-rê-mi-xon-la)
– Chuyển xuống 1 cỡ : Vị trí Fa (fa-xon-la-đô-rê) (xem thí dụ 26a)
– Chuyển lên 1 cỡ : Vị trí Xon (xon-la-xi-rê-mi)
– Chuyển xuống 2 cỡ : Vị trí Xib (xib-đô-rê-fa-xon)
– Chuyển lên 2 cỡ : Vị trí Rê (rê-mi-fa#-la-xi)
(Xem chi tiết hơn trong giảng khoá về Dân ca, chương trình Ca trưởng III).
2.5. Ngoài việc chuyển hệ làm thay đổi màu sắc vui buồn, trong dân ca còn có hiện tượng chuyển hơi : Hơi bắc, hơi ví dặm, hơi nam ai, hơi nam xuân hơi oán, hơi quảng … làm cho nét nhạc có nhiều sắc thái, diễn tả được nhiều trạng huống của lòng người.
TD 30 : Bài lý ngựa ô Bắc (chuyển từ hơi Bắc (I), sang hơi Xuân (II). Kèm theo chuyển vị xuống 1 cỡ : VTFa —> VTXib. TD 30
3. Ngoài ngũ âm thông thường, dân ca Việt Nam còn sử dụng thang ngũ âm ngoại thường như thang âm Tây Nguyên và thang âm oán.
3.1. Thang âm Tây Nguyên ở vị trí đô : Đô – mi – fa – xon – xi – (đô) (xem bài Chiêng trống cồng và Anh ở buôn làng). (2c) (1/2c) (1c) (2c) (1/2c)
Thang âm Tây Nguyên nếu khéo dùng có thể cho cảm giác hùng tráng của núi rừng, sự gần gũi với thiên nhiên trong lao động trên nương rẫy, hay quanh đống lửa lúc đêm về… Nếu không khéo, sẽ cho cảm giác thê lương, ảm đạm do hai nửa cung đem lại (đôi khi bài Thánh ca dùng thang âm Tây Nguyên cho cảm giác mới lạ, nhưng hoàn toàn không phù hợp với bầu khí phụng vụ).
3.2 Thang âm oán : là thang ngũ âm ngoại thường biến hoá từ hơi Nam Ai. Hơi Nam Ai chủ yếu thuộc hệ thống 2 của thang âm thông thường. Chúng ta so sánh thang âm Nam Ai và thang âm oán.
Âm
I
II
III
IV
V
(I)
T. Â. NAM AI (Vị trí Đô)
LA
ĐÔ
MI
XON
(LA)
T. Â Oán (Vị trí Đô)
La
đô đô#
mi
fa fa # xon
(La)
Trong thang âm oán vị trí Đô, dấu đô# (âm II) hát cao hơn khoảng 1/4 cung rất gần với dấu Rê (âm III), còn dấu fa rất gần với Mi (âm IV), thấp hơn fa thông thường khoảng 1/4 cung. Dấu fa# cũng thấp hơn thông thường khoảng 1/4 cung. Như vậy âm II và âm IV là những âm di động, tuỳ theo đó mà ta có 5 biến thể khác nhau.
Vị trí Đô 1. La đô rê mi fa# la Vị trí Fa 1. Rê fa xon la xi rê
2. La đô# rê mi fa# la 2. Rê fa# xon la xi rê
3. La đô rê mi fa la 3. Rê fa xon la xib rê
4. La đô# rê mi fa la 4. Rê fa# xon la xib rê
5. La đô# rê mi xon la 5. Rê fa# xon la đô rê
(Xem các bài Dân ca : Lý chiều chiều, Lý ba tri, Lý xăm xăm, Lý che hường …). Mỗi biến thể có thể cho một cảm giác khác nhau (sẽ học trong giảng khoá về dân ca).
TD 31

3.3 Tại Nhật bản cũng có thang ngũ âm ngoại thường. Ở vị trí Đô thì thang âm Nhật bản đó lấy cột trụ của hệ thống 2 : La – xi – đô mi fa la, với 2 dấu xi và fa tạo thành 2 nửa cung, làm cho nét nhạc vốn buồn lại buồn thêm (Xem bài Sakura, Hoa anh đào).
TD 32 : Ngũ âm Nhật Bản


4. Thang thất âm thông dụng hiện nay gồm 7 dấu nhạc liên tiếp khác tên Đô rê mi fa xon la xi (đô). Với 7 dấu nhạc này chúng ta cũng có thể có 7 dạng thang âm :
bậc I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
Các thể nhạc Hy-lạp
Các thể nhạc
Bình ca
Trung cổ gọi tên lầm
Nhạc
cổ điển
Tây Phương
dạng 1
dạng 2
dạng 3
dạng 4
dạng 5
dạng 6
dạng 7
Đô
Mi
Fa
Xon
La
Xi
mi
fa
xon
la
xi
đô
mi
fa
xon
la
xi
đô
fa
xon
la
xi
đô
mi
xon
la
xi
đô
mi
fa
la
xi
đô
mi
fa
xon
xi
đô
mi
fa
xon
la
(đô)
(rê)
(mi)
(fa)
(xon)
(la)
(xi)
Lydien
Phrygien
Dorien
Hypôlydien
Hypôphrygien
(Iastien)
Hypôdorien
(Eâôlien)
Mixolydien
(lônien)
Protus
Deuterus
Tritus
Tetrardus
Hypôlydien
Đorien
Phrygien
Lydien
Mixolydien

Hypôdorien

Hypôphrygien
Trưởng tn
0
0
0
0
Thứ tn
0
4.1. Dạng 1 với Đô – xon là dấu trụ chính và Mi làm trụ phụ, và với cơ cấu cung bậc ổn định : 1c – 1c – 1/2c – 1c – 1c – 1/2c được gọi là thang thất âm ở vị trí Đô, thể trưởng (h.t.1) hoặc như người ta thường gọi là thang âm Đô trưởng tự nhiên. Đây là thang âm được dùng phổ biến từ thời cổ điển cho đến nay. (Nhạc Hy-lạp gọi là thể Lydien ; tương đương với thể Tritus có xib của Bình ca).
4.2. Dạng 2 với Rê – la làm dấu trụ, thang âm được người Hy-lạp trình bày từ cao xuống trầm gọi là thể Phrygien. Còn nhạc Bình ca gọi là thể Protus với dấu xi thường hoặc xi giáng (khi dùng xi giáng thì thể Protus có cơ cấu cung bậc giống như ở dạng 6).
4.3. Dạng 3 với Mi – xi hoặc La làm dấu trụ, nhạc Hy-lạp gọi là thể Dorien. Còn nhạc Bình ca dùng dấu trụ Mi và Xi hoặc Đô, gọi là thể Deuterus với dấu xi thường, ít có xi giáng hơn (Khi có xib thì nó tương đương với dạng 7 : xi đô rê mi fa xon la (xi) = mi fa xon la xib đô rê (mi)).
4.4. Dạng 4 với Fa – đô làm dấu trụ, nhạc Hy-lạp gọi là thể Hypolydien. Còn nhạc Bình ca gọi là thể Tritus với dấu xi thường hoặc xi giáng (Khi dùng xi giáng thì thể Tritus có cơ cấu cung bậc giống như Đô Trưởng tự nhiên).
4.5. Dạng 5 với Xon – rê làm dấu trụ, nhạc Hy-lạp gọi là thể Hypophrygien (Iastien). Cò nhạc Bình ca gọi là thể Tetrardus với dấu xi thường và đôi khi xi giáng.
4.6. Dạng 6 với La – mi làm trụ chính, đô làm trụ phụ, với cơ cấu cung bậc ổn định : 1c – 1/2c – 1c – 1c – 1/2c – 1c – 1c được gọi là thang thất âm ở vị trí Đô thể thứ (h.t.2) hoặc như người ta thường gọi là thang âm la thứ tự nhiên. Thang âm này cùng với thang âm Đô trưởng là 2 thang âm tương ứng hay song song hoặc cùng vị trí, nhưng tính cách tương phản nhau được dùng phổ biến từ thời cổ điển đến nay (nhạc Hy-lạp gọi là thể Hypodorien (hoặc Eolien) ; tương đương với thể Protus có xib của nhạc Bình ca).
4.7. Dạng 7 với Xi – mi làm dấu trụ, nhạc Hy-lạp gọi là thể Mixolydien (Iônien). Nhạc Bình ca không dùng loại này, nhưng dùng nó để chuyển dịch thể Deuterus khi thể này thường xuyên dùng xi giáng (xem riêng về các thể nhạc Bình ca ở Ca trưởng II).
5. Thang thất âm vị trí Đô hiện nay người ta chỉ dùng phổ biến 2 hệ thống có tính cách đối chọi nhau gọi là thể Trưởng và thể thứ, và người ta lấy dấu đầu của mỗi dạng thang âm để gọi tên thang âm : Thang thất âm ở vị trí Đô.
– cung Đô thể Trưởng tự nhiên gọi tắt là thang âm Đô T/tn
– cung La thể Thứ tự nhiên gọi tắt là thang âm La t/tn
5.1. Tổ chức cung bậc trong cả hai lại thang âm T/t đều có tên gọi như nhau :

Tên dấu (Đô Trưởng)
Tên Bậc
Tên chức năng (Ký hiệu)
Tên dấu (La Thứ )
Đô

Mi
Fa
Xon
La
Xi
Bậc I
Bậc II
Bậc III
Bậc IV
Bậc V
Bậc VI
Bậc VII
chủ âm (T = Tonique)
thượng chủ âm (âm dẫn xuống)
trung âm (thượng = Mt) (M = Médiante)
hạ át âm (át âm hạ) (S = Sousdominante)
át âm (át âm thượng) (D = Dominante)
thượng át âm (trung âm hạ = Mh)
cảm âm (âm dẫn lên)
La
Xi
Đô
Mi
Fa
Xon




a) Dấu Fa – đô – xon nằm cách nhau q.5. Dấu đô là trung tâm nên gọi là chủ âm (T), kế đến là dấu xon có tầm quan trọng thứ hai trong thang âm, gọi là Át âm (D), dấu fa có tầm quan trọng thứ ba về mặt hoà âm, gọi là Át âm hạ (S). Các dấu La và Mi nằm giữa các dấu Át âm và chủ âm nên gọi là Trung âm hạ (Mh) và trung âm thượng (Mt). Các dấu xi và rê là hai dấu bị hút về chủ âm : xi bị hút lên, gọi là âm dẫn lên ; rê bị hút xuống, gọi là âm dẫn xuống.
b) Xét về mặt giai điệu, thì trong thang âm, các âm thanh không có tầm quan trọng giống nhau, nhưng chúng có mối tương quan chính và phụ với nhau. Trong số các âm chính (dấu trụ) thì nổi bật hơn cả là chủ âm, kế đó là Át âm, rồi tới Trung âm (thượng). Còn các âm phụ (dấu phụ) thì bị hút về âm chính ít hay nhiều tuỳ theo nó đứng cách âm chính chính quãng 2 thứ hay 2 Trưởng.


Các dấu trụ là những dấu ổn định của hệ thống. Khi học xướng âm, trong lúc đầu ta sẽ dựa trên các dấu trụ để đọc các dấu phụ (không ổn định) :
Trong Đô T : bậc II và bậc VII dựa vào chủ âm (bậc I)
bậc IV dựa vào Trung âm thượng (bậc III)
bậc VI dựa vào Át âm (bậc V).
Trong La thứ tự nhiên, sức hút các dấu trụ không rõ nét như trong Đô tự nhiên.
Chủ âm La không hút các dấu phụ bằng Át – âm Mi và trung âm Đô (trong luật âm vang tự nhiên, thiên nhiên cho chúng ta thang âm Trưởng chứ không cho chúng ta thang âm thứ ; thang âm thứ có thể nói là một sự gò ép thiên nhiên do con người tạo ra).
5.2. Các loại thang âm trưởng : ngoài thang âm Trưởng tự nhiên theo mẫu của Đô Trưởng như vừa nêu ở trên, người ta tạo ra thang âm trưởng hoà âm và thang âm trưởng giai điệu như sau :
Trưởng hoà âm = trưởng tự nhiên nhưng bậc VI được hạ xuống 1/2 cung để tăng thêm sức hút của bậc V đối với bậc VI : Đô rê mi fa xon lab xi đô.
Trưởng giai điệu = trưởng hoà âm thêm bậc VII hạ xuống 1/2 cung : Đô rê mi fa xon lab xib đô, thường dùng ở nét nhạc đi xuống : để tránh q.2 tăng (Đô xi lab) : Đô xib lab xon fa mi rê đô (phần đầu giống la thứ tự nhiên).
5.3. Âm thể trưởng (điệu thức trưởng) là tính cách do các dấu ổn định (dấu trụ) nối tiếp nhau hay chồng lên nhau theo q.3 tạo thành hợp âm Trưởng 3 dấu.







Còn các dấu không ổn định (dấu Phụ) nằm xen kẽ với các dấu trụ theo cơ cấu cung bậc như sau : 1c – 1c – 1/2c – 1c – 1c – 1c – 1/2c.
a) Tính cách của âm thể Trưởng thường vui tươi, khoẻ mạnh, sáng sủa. Tuy nhiên cũng có những bài thuộc thể trưởng, nhưng tính cách vẫn buồn, do cách tác giả nắn giai điệu (thí dụ : Xuân Ca, Than Hang Đá).
b) Cung (giọng) là độ cao dựa vào đó để sắp xếp âm thể (tương đướng với vị trí trong ngũ âm). Trên thực tế đó là tên cao độ của chủ âm (thí dụ : cung đô trưởng = thang thất âm mà chủ âm là Đô và thể là Trưởng = thang thất âm vị trí Đô, âm thể trưởng). Thường người ta dùng các chữ cái La-tinh để ghi các cung giọng :
C/CM (C Majeur)/C – dur = Đô Trưởng
a/Am (A mineur)/a – moll = La thứ
5.4 Các loại thang âm thứ : ngoài thang âm thứ tự nhiên dựa trên mẫu của thang âm la thứ tự nhiên, người ta còn tạo ra thang âm thứ nhân tạo hoà âm và giai điệu.
a) Thang âm thứ (nhân tạo) hoà âm có dấu bậc 7 tăng lên 1/2 cung. Trong hoà âm, người ta cũng muốn cho dấu bậc 7 (là dấu cảm âm) cũng có tính cách hướng về chủ âm như trong thang âm Trưởng, nên thường khi gặp dấu 7 trong la thứ là người ta tăng lên 1/2 cung, khiến cho hợp âm bậc V trong la thứ trở thành hợp âm trưởng.



b) Thang âm thứ (nhân tạo) giai điệu : Trong giai điệu, nếu dùng thang âm thứ hoà âm ở nét nhạc đi lên, thì ta sẽ gặp quãng 2 tăng (fa – xon#) là một quãng khó hát, nên người ta phải tăng cả dấu bậc 6 lên 1/2 cung để tránh quãng 2 tăng đó. Do đó ta có thang âm thứ giai điệu, khi nét nhạc đi lên. Còn khi nét nhạc đi xuống thì người ta lại dùng như trong thang âm thứ tự nhiên.




5.5. Âm thể thứ (Điệu thức thứ) là tính cách trong đó các dấu ổn định (dấu trụ) của thang âm (nối tiếp hoặc chồng lên nhau) tạo thành hợp âm thứ 3 dấu : La – Đô – Mi.







Còn các dấu không ổn định (dấu phụ) nằm xen kẽ với các dấu trụ theo cơ cấu cung bậc như sau : 1c – 1/2c – 1c – 1c – 1/2c – 1c – 1c.
a) Tính cách của âm thể thứ thường u buồn, lắng dịu, trữ tình, nhưng thể thứ tự nhiên vững chãi, hy vọng, ít uỷ mị hơn thể thứ hoà âm. Còn thể thứ giai điệu bắt chước nét nhạc của thể trưởng, nên cho cảm giác phấn khởi, vui tươi hơn.
b) Cung (giọng) của âm thể thứ bao giờ cũng là tên dấu nhạc nằm dưới cung Trưởng tương ứng một quãng 3t.
Thí dụ : Đô T ______ La t ; Xon T ______ mi t.
6. Các loại thang âm.
6.1. Xét về âm thể, thì có 2 loại chính là Trưởng và thứ. Khi thang âm Trưởng và thứ ở cùng vị trí thì chúng được gọi là 2 thang âm tương ứng hay song song, vì chúng cùng dùng chung các dấu cơ bản, chỉ khác là vai trò chính phụ của chúng.
Thí dụ : Đô T tương ứng La t ; Fa T tương ứng Rê t.
6.2. Xét về cung giọng (vị trí) ta có các loại :
a) Thang âm tương tiếp là những thang âm mà vị trí của chủ âm nằm cách nhau q.5đ đi lên hoặc đi xuống liên tiếp
G —> D —> A —> E —> H —> F# —> C# —> G# —> D# —> A# —> E#
C
F —> B —> Eb —> Ab —> Db —> Gb —> Cb —> FFb —> Hbb —> Ebb —> Abb
(E#) (A#) (D#) (G#) (C#) (H) (E) (A) (D) (G)
Ghi chú : các thang âm ở trong ngoặc là thang âm đồng âm với các thang âm nằm trên nó.
a1) – Chúng ta biết thang âm Đô T gồm 2 tứ liên âm có cơ cấu giống nhau :




Dấu nhạc khởi đầu hai tứ liên âm cách nhau 1q.5đ, dấu cuối của tứ liên âm dưới cách dấu đầu của tứ liên âm trên một cung.
a2) – Muốn thiết lập các thang âm tương tiếp đi lên, thì ta lấy TLÂ trên làm khởi đầu cho một thang âm mới, và xếp tiếp các dấu còn lại thành tứ liên âm theo cơ cấu 1c – 1c – 1/2c.






Và như vậy ta có thang âm Xon T với dấu fa#, Ta có Rê T với fa# và đô#. Và nếu tiếp tục, ta sẽ có La T với fa# đô# xon#, … Xi T với fa# đô# xon# rê# la# …
a3) Thứ tự các thang âm Trưởng có dấu thăng (hoặc thang âm tương tiếp đi lên) thì nằm cách nhau quãng 5 đi lên, và thứ tự các dấu thăng cũng cùng đi lên từng quãng 5 bắt đầu bằng dầu fa#.
a4) Muốn biết tên các thang âm Trưởng có dấu thăng, ta thêm 1/2 cung vào dấu thăng cuối cùng ở khoá biểu ta sẽ có tên của chủ âm thang âm Trưởng.




a5) Muốn thiết lập các thang âm tương tiếp đi xuống, ta lấy tứ liên âm dưới làm TLÂ trên cho một thang âm mới, và tiếp tục xếp các dấu còn lại cũng theo cơ cấu 1c – 1c – 1/2c :





Và như vậy ta có thang âm Fa T với xib, và nếu tiếp tục ta sẽ có Xib T với xib mib, Mib T với xib mib lab, Lab T với xib mib lab rêb, Rêb T với xib mib lab rêb, Xonb T với xib mib lab rêb xonb đôb.
a6) Thứ tự các thang âm Trưởng có dấu giáng (hoặc có thang âm tương tiếp đi xuống) thì nằm cách nhau q.5 đi xuống, và thứ tự các dấu giáng cũng đi xuống từng q.5, bắt đầu từ dấu xib.
a7) Muốn biết tên thang âm Trưởng có dấu giáng, ta lấy ngay tên dấu giáng áp chót (trước dấu cuối cùng) :




b) Thang âm đồng nguyên là hai thang âm cùng cung giọng (tức cùng tên chủ âm) nhưng âm thể khác nhau (tính cách khác nhau).
Thí dụ : C : Đô – rê – mi – fa – xon – la – xi – (đô) (Đô Trưởng)
Cm : Đô – rê – mib – fa – xon – lab – xi(b) – (đô) (Đô thứ)
So sánh hai thang âm đồng nguyên, ta thấy được rằng các dấu bậc 3 và bậc 6 trong thang âm thứ thấp hơn trong thang âm trưởng nửa cung. Do đó người ta gọi bậc 3 và bậc 6 là bậc định thể (xác định âm thể trưởng hoặc thứ). Riêng bậc 7 trong âm thể thứ hoà âm thì cũng giống như thể Trưởng.
c) Thang âm đồng âm là những thang âm khác tên gọi chủ âm, nhưng cao độ chủ âm giống nhau.
Thí đụ : Đô# T = Rêb T ; Ab T = G# T (xem bảng ở số 6.2a)
Như vậy xét cho cùng chỉ có 12 thang âm có cao độ khác nhau
1. C (= H#) 2. G (= Abb) 3. D (= Ebb)
4. A (= Hbb) 5. E (= Fb) 6. H (= Cb)
7. F# (= Gb) 8. C# (= Db) 9. G# (= Ab)
10. D# (= Eb) 11. A# (= B) 12. E# (= F)
Hai thang âm đồng âm luôn có tổng số các dấu hoá ở bộ khoá là 12 :
(Thí dụ Db có 5b đồng âm với C# có 7 # ; F# có 6# đồng âm với Gb có 6b …)
T
Nhạc Lý Căn Bản-CHƯƠNG V
CHƯƠNG V CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TRƯỜNG ĐỘ A. TIẾT TẤU [ Rythme (Pháp), Rhythmus (La-tinh) ]
1. Khái niệm : Âm nhạc thuộc loại nghệ thuật chuyển động trong thời gian, có âm thanh trước, âm thanh sau nối tiếp nhau từ đầu bài cho đến cuối bài. Các âm thanh chuyển động từ đầu bài cho đến cuối bài, không phải một cách lộn xộn như trong một đám đông vô trật tự, mà có một sự sắp xếp thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn khác nhau. Tiết tấu chính là sự sắp xếp các âm thanh ngắn dài khác nhau, thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn theo tình ý của người soạn nhạc.
Vì thế Platon đã định nghĩa : “Tiết tấu là sự sắp xếp chuyển động”. Còn thánh Augustinô gọi “Tiết tấu là nghệ thuật chuyển động khéo léo” (Ars bene movendi). Nhạc sĩ Vincent d’Indy định nghĩa một cách khái quát hơn : “Tiết tấu là sự trật tự và cân xứng trong không gian và thời gian” (le rythme est l’ordre et la proportion dans le temps et l’espace).
2. Như vậy, tiết tấu là yếu tố xử lý trường độ của âm thanh để tạo nên trật tự, ý nghĩa, sự hài hoà và sự sống cho bản nhạc. Trong thanh nhạc (có lời ca), thì tiết tấu phải dựa trên ý nghĩa lời ca (xem TD 27, 28, 29, 30, 31). Trong khí nhạc (không có lời ca) thì tiết tấu dựa trên tình ý của người soạn nhạc, được thể hiện qua các ý nhạc chủ đạo (hoặc nhạc đề) và sự khai triển các chủ đề đó theo nguyên tắc “biến đổi trong thuần nhất” (La variété dans l’unité).
TD 33
- Câu 1 và câu 3 tương tự nhau, khác nhau về tiết tấu : câu 3 được biến cải từ câu 1 tạo được “sự biến đổi trong thuần nhất”.
- Câu 2 và câu 4 được lặp lại giống hệt nhau, củng cố tính thuần nhất của đoạn nhạc.
3. Bất cứ một chuyển động nào, dù ngắn hay dài, đều bao gồm hai thời điểm : đó là lúc khởi đầu lúc kết thúc. Lúc khởi đầu là yếu tố động, đòi hỏi năng động, sức mạnh, cường độ ; lúc kết thúc là yếu tố tĩnh, đòi hỏi sự nghỉ ngơi, êm nhẹ, buông lỏng. Tiết tấu liên kết, pha trộn các yếu tố này với nhau sao cho khéo léo, hợp với ý nghĩa lời ca hoặc hợp với tình ý của chủ đề bản nhạc.
Vì thế có bản nhạc có tiết tấu hay, có bản nhạc có tiết tấu kém, đó là do người soạn nhạc khéo hay không khéo sắp xếp âm thanh lại với nhau.
4. Trong âm nhạc, lúc khởi đầu người ta gọi là nét vươn lên hay là bước tiến (arsis), khi kết thúc thì gọi là chỗ nghỉ ngơi hay là bước lui (thesis). Bước tiến được phác hoạ bằng cách nâng tay lên, bước lui bằng cách hạ tay xuống.

Như vậy tiết tấu nhỏ nhất gồm một bước tiến và một bước lui : nhiều tiết tấu nhỏ liên kết lại thành tiết tấu vừa, rồi tiết tấu lớn. Trong âm nhạc người ta thường gọi tiết tấu mạch, tiết tấu chi, tiết tấu câu, tiết tấu đoạn, tiết tấu bài.
5. Trong bản nhạc, các bước tiến, bước lui không nhất thiết có trường độ bằng nhau. Trong nhạc Bình ca, người ta dùng khi thì bước 2, khi thì bước 3 (bây giờ gọi là phách kép 2 tương đương với loại nhịp 2/8, và phách kép 3 tương đương với loại nhịp 3/8) pha trộn khác nhau tuỳ theo lời ca hoặc tâm tình của tác giả, người ta gọi đó là loại tiết tấu khoáng đạt (xem bài Jésus dulcis : TD 34). (Trong nhạc mới, biết dùng pha trộn loại nhịp 2 phách với loại nhịp 3 phách một cách thường xuyên, thì cũng gọi đó là tiết tấu khoáng đạt).
TD 34 : Jésus Dulcis (tiết tấu khoáng đạt của nhạc Bình ca).
Trước thế kỷ 17 chưa có vạch nhịp như bây giờ. Các bước nối tiếp nhau được phân chia thành từng nhóm khác nhau nhờ các vạch ngắn, vạch nửa, vạch trọn, vạch đôi : vạch ngắn thường để phân mạch nhạc, vạch nửa để phân chi nhạc, vạch trọn để phân câu nhạc, vạch đôi để phân đoạn nhạc hoặc bài nhạc.
TD 35
Sau này, để cho tiện nhìn, người ta thêm các vạch trọn vào trước chỗ hạ xuống (trước bước lui) của các nhóm tiết tấu nhỏ nhất. Từ đó phát sinh ra các ô nhịp, nhưng các ô nhịp ấy không nhất thiết đều nhau.
6. Khi tiết tấu gồm những bước tiến bước lui đều nhau từ đầu đến cuối, người ta có thể chia thành những phần trường độ đều nhau (gọi là ô nhịp đều nhau) và ta gọi đó là tiết tấu đều đặn hay tiết tấu chia đều (le rythme mesuré). Trường độ âm thanh trong ô nhịp được xác định bằng một phân số chỉ loại nhịp ghi ở đâu bài. (Thí dụ : 2/4 — mỗi ô nhịp có 2 phách, mỗi phách tương đường một dấu đen).
7. Loại tiết tấu đều đặn còn được chia ra hai loại khác : đó là tiết tấu bình thường và tiết tấu bất thường.
7.1 Tiết tấu bình thường là tiết tấu gồm các bước hoặc các phách có trường độ đều nhau.
TD 36
7.2 Tiết tấu bất thường là tiết tấu trong đó các bước hoặc phách ngắn dài, sớm muộn khác nhau (gọi là đảo phách) hoặc tiết tấu trong đó thiếu hụt các phần đầu bước hoặc đầu nhịp (nghịch phách). Trong thực tế, nghịch phách là một loại đảo phách mà trong đó phần phách bất thường thay vì ngân dài thì được thay thế bằng dấu lặng.
TD 37 : Đảo phách (Syncope)
TD 38 : Nghịch phách (Contre-temps)
7.3 Ngoài ra còn những hình thức tiết tấu bất thường khác, thường gặp trong Dân ca và cổ nhạc Việt Nam :


8. Tóm lại, tiết tấu là linh hồn đem lại sức sống cho giai điệu. “Ai cũng cảm nghiệm được tiết tấu : rất nhiều người không biết hoà âm, một số người không biết giai điệu, nhưng không ai là không biết tiết tấu”. Chính tiết tấu xử lý trường độ âm thanh, tạo nên những bước tiến bước lui gợi ý cường độ cho âm thanh, làm cho các âm thanh nối kết với nhau có ý nghĩa. Do đó diễn tấu một bản nhạc có hồn hay không là do ta có biết diễn tấu cường độ do tiết tấu gợi ý cho ta hay không. Ngược lại, nếu ta cứ phách đầu mạnh, phách sau nhẹ … như người ta thường dạy, thì việc diễn tấu sẽ trở nên máy móc, thiếu tâm tình, tức là thiếu cái hồn của âm nhạc.
B. TIẾT NHỊP
1. Trong số 8 chương II, chúng ta đã biết phách là đơn vị thời gian trong âm nhạc. Nhờ phách mà ta cảm nhận được sự chuyển động của âm thanh trong thời gian, giống như các bước chân chuyển động trong không gian. Có loại phách chia chẵn cho 2. Có loại phách chia chẵn cho 3.
2. Khi tiết tấu gồm toàn những phách đều nhau và cùng loại, người ta có thể chia tiết tấu chung ra thành từng phần nhỏ đều nhau bằng các vạch nhịp, tạo thành những ô nhịp. Phần tiết tấu được chia đều trong các ô nhịp là tiết nhịp. Để chỉ rõ mỗi tiết nhịp có bao nhiêu phách, mỗi phách trường độ ra sao, thì người ta ghi ở đầu đoạn nhạc một phân số gọi là số tiết nhịp (hoặc số nhịp). (Người ta thường gọi ô nhịp thay thế cho tiết nhịp, nhưng khi gọi tiết nhịp thì ta chú trọng đến phần tiết tấu nằm trong ô nhịp, tức chú trọng đến âm hình tiết tấu nằm trong mỗi ô nhịp). Nhìn vào số nhịp, ta có thể nhận ra được loại nhịp.
3. Có hai loại nhịp chính đó là loại nhịp chia 2 và loại nhịp chia 3.
3.1. Loại nhịp chia 2 (còn gọi là nhịp nhị phân, hay loại nhịp đơn) là loại nhịp trong đó mỗi phách có thể chia nhỏ ra thành 2 phần đều nhau.
3.2. Loại nhịp chia 3 (còn gọi là loại nhịp tam phân hay loại nhịp kép) là loại nhịp trong đó mỗi phách có thể chia nhỏ ra thành 3 phần đều nhau.
A. CÁC LOẠI NHỊP CHIA 2
B. CÁC LOẠI NHỊP CHIA 3
3.3. Nhận xét :
Các loại nhịp thường dùng là 2/4, 3/4, 4/4 hay c, 2/2 hay C, 2/8, 3/8, 6/4, 6/8, 9/8.
Các loại nhịp chia 3 dùng các hình dạng dấu nhạc có chấm
Các loại nhịp chia 2 có tử số từ 2 – 3 – 4, còn các loại nhịp chia 3 có tử số lớn hơn 4, tức là 6, 9, 12.
3.4. Ngoài ra người ta còn dùng loại nhịp hỗn hợïp, nghĩa là kết hợp 2 hoặc 3 loại nhịp cùng loại với nhau.
Chẳng hạn :
Sự luân phiên các nhịp 2/4, 3/4 có khi thay đổi không đều đặn, lúc đó người ta có thể dùng những dấu chấm để phân chia các loại nhịp như :
4. Trong khi học xướng âm, để đánh dấu sự chuyển động của các phách, các bước đi, người ta dùng tay gõ xuống ở mỗi phách. Nếu là phách chia 2 thì gồm một cái gõ xuống và một cái nâng lên ( ) . Nếu là phách chia 3 thì gồm một cái gõ xuống, một cái đưa ngang ra và một cái nâng lên ( ).
TD 40
5. Còn khi điều khiển việc trình tấu một bản nhạc, người ta dùng tay mặt hoặc cả hai tay để vừa xác định nhịp độ của bản nhạc, vừa phác hoạ sự chuyển động của các phách, lại vừa diễn tả cường độ, sắc thái âm thanh. Sau đây là một số sơ đồ của các tiết nhịp cơ bản thường gặp (của tay phải), khi diễn tả liền tiếng :


Ghi chú :
Phách đầu thường có hướng đi xuống, phách cuối thường có hướng đi lên. Trong mỗi phách đều có phần xuống và phần lên, nối kết lại ta có một đường vòng cung mà chỗ thấp nhất là chỗ bắt đầu của âm thành.
Khi diễn tả rời tiếng : các đường phác hoạ sẽ gãy gọn hơn, càng mạnh thì cử chỉ tay càng nẩy hơn. Sau đây là sơ đồ hết sức thô sơ để nhớ hướng đi chính của mỗi phách :
6. Tiết điệu (nhịp điệu hoặc điệu nhạc) : là một công thức tiết tấu dựa trên một loại tiếp nhịp nhất định nào đó, thường được dùng để đệm bằng nhạc khí, thí dụ nhịp điệu Marche, Fox, Valse, Boston, Rumba, Chachacha, Boléro, Tango, Slow, Twist, Surf …
TD 41 : (Một số tiết điệu cho đàn Guitare)
Có một số loại nhạc như hành khúc, vũ nhạc, gắn liền với những tiết điệu nhất định. Còn những loại nhạc khác không nhất thiết gắn liền với một tiết điệu nào (chẳng hạn các bài thánh ca), thì có thể có nhiều cách để đệm khác nhau, không nên loại bài hát nào cũng đem vũ điệu vào mà đệm.

Các bài liên quan




1 nhận xét:

Unknown nói...

Bài viết rất hay, sâu sắc.

Đăng nhận xét