skip to main |
skip to sidebar
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
1. Muốn hiểu ngôn ngữ viết, tối thiểu ta phải biết đánh
vần, đọc chữ. Tương tự như vậy, muốn xem và hiểu một bản
nhạc, ta cũng phải hiểu được các ký hiệu âm nhạc, và biết xướng
âm. Có thể nói Nhạc pháp (gồm nhạc lý và xướng âm) là cửa ngõ
dẫn vào âm nhạc.
2. Âm nhạc là một bộ mộn nghệ thuật
dùng âm thanh để diễn đạt tình ý của con người. Nó được chia
ra hai loại chính, đó là thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là
âm nhạc dựa trên lời ca, nên ý tưởng và tình cảm cụ thể và rõ
ràng. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của
các nhạc cụ, nên trừu tượng, nó gợi ý, gây cảm giác hơn là
nói lên một tình cảm nào rõ rệt. Cần phải học hỏi nhiều hơn
mới lĩnh hội được.
3. Nghệ thuật là kết quả của hoạt động
của con người biết dùng các phương tiện khả giác một cách
khéo léo, tài tình, để thông đạt tình ý của mình. Trong âm
nhạc, các phương tiện đó là âm thanh.
Do đó, âm nhạc chủ yếu làm cho tai nghe. Muốn thưởng thức âm
nhạc, phải nghe thực thụ chứ xem bằng mắt thì chưa đủ.
4. Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính này :
4.1. Cao thấp (cao độ)
4.2. Ngắn dài (trường độ)
4.3. Mạnh nhẹ (cường độ)
4.4. Đục trong, sáng tối … (âm sắc).
Thiếu một trong các đặc tính trên thì chỉ là tiếng động.
Hiện nay người ta dùng nhiều tiếng động khác nhau trong âm
nhạc, nhằm tăng cường mức độ diễn cảm cũng như tính tiết tấu
của âm nhạc. Đó là các nhạc cụ thuộc bộ gõ như trống con,
trống cái, phách, maracas, triangle, cymbal …
5. Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu
hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các
đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký
hiệu âm nhạc trên giấy mực.
Nhạc Lý Căn Bản-CHƯƠNG I
CHƯƠNG I
KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CAO ĐỘ
1. Tên các dấu nhạc có cao độ khác nhau mà người ta
thường dùng là : DO, RE, MI, FA, SOL, LA, SI gốc tiếng La-tinh, đọc
theo tiếng Việt là ĐÔ, RÊ, MÍ, FA, XON, LA, XI. Đó là 7 bậc cơ bản của
hệ thống thất âm, tính từ thấp lên cao. Muốn lên cao hoặc xuống thấp
hơn, người ta lặp lại tên dấu các bậc trên với cao độ cách nhau từng
quãng 8 một (còn gọi là bát độ).
2. Người ta cũng còn dùng các chữ cái La-tinh để gọi
tên các bậc cơ bản trên : đô : C, rê : D, mi : E, fa : F, xon : G, la :
A, xi : B (hiện nay B chỉ Xi giáng, còn H chỉ Xi thường).
3. Ở một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản … người ta còn dùng số thay cho tên gọi bằng chữ.
Thí dụ : 1 : đô, 2 : rê, 3 : mi … (1 chỉ dấu bậc I, 2 chỉ dấu bậc
II, 3 chỉ dấu bậc III …, 7 chỉ dấu bậc VII, muốn lên cao một bát độ,
ta thêm dấu chấm trên con số, muốn xuống thấp một bát độ, ta thêm dấu
chấm dưới con số 1, 1 …). Số có 1 gạch là dấu móc, dấu có một gạch
ngang là dấu trắng. Dấu không có gì là dấu đen…
Thang thất âm Đô luôn được trình bày dưới dạng 7 âm cơ bản đi liền
nhau cộng thêm với âm đầu của thang âm được lặp lại ở bát độ : Đô Rê
Mi Fa Xon La Xi (Đô).
4. Khoảng cách về cao độ tương đối giữa các bậc không đồng đều nhau.
· Khoảng cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung, giữa Mi với Fa và Xi với Đô.
· Khoảng cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung : giữa Đô với Rê, Rê với Mi, Fa với Xon, Xon với La, và La với Xi.
Ta có sơ đồ :
Đô–Rê–Mi-Fa–Xon–La–Xi-Đô (mỗi gạch ngang chỉ nữa cung, nguyên cung gồm 2 nửa cung).
Như vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12
nửa cung, hoặc 6 nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ – Đố) gồm 12
âm cách nhau đều đặn từng nửa cung một (ở đây chỉ mới nói đến hệ âm điều hoà
do nhạc sĩ Jean-Sebastien Bach (1685-1750)và Jean Philippe Rameau
(1683-1764) cổ võ và được chấp nhận rộng rãi cho đến nay).
5. Dấu hoá : là những ký hiệu cho biết các bậc cơ bản được tăng lên hay giảm xuống từng nửa cung điều hoà.
5.1. – Dấu thăng : (#) làm tăng lên nửa cung.
- Thăng kép : (x) làm tăng lên 2 nửa cung.
5.2. – Dấu giáng : (b) làm giảm xuống nửa cung.
- Giáng kép : (bb) làm giảm 2 nửa cung.
5.3. – Dấu bình : ( n ) cho trở về cao độ tự nhiên,
không còn bị ảnh hưởng của các dấu hoá cấu thành cũng như dấu hoá bất thường.
Ở một số nước như Đức, Nga … khi dùng chữ cái La-tinh A, B, C … người ta thêm vần is thay dấu thăng : Cis : Đô# ; Eis : Mi# ; Ais : La# ; Cisis : Đôx … và thêm vần es thay dấu giáng : Ces : Đôb ; Ceses : Đôbb ; Des : Rêb ; Ees —> Es : Mib ; Aes —> As : Lab.
6. Nhờ các dấu hoá đặt trước các dấu nhạc trên khuông nhạc, các bậc cơ bản được nâng cao hoặc hạ thấp tạo thành các “bậc chuyển hoá” : Đồ – Đô# (Rêb) – Rê – Rê# (Mib) – Mi – Fa – Fa# (Xonb) – Xon – Xon# (Lab) – La – La# (Xib) – Xi – Đô (các dấu hoá này được gọi là các dấu hoá bất thường. Chỉ ảnh hưởng đến các dấu nhạc cùng tên trong cùng một ô nhịp, khác với các dấu hoá cấu thành ghi ở đầu khuông nhạc, còn gọi là hoá biểu, ảnh hưởng đến mọi dấu nhạc cùng tên trong cùng một đoạn nhạc).
- Nửa cung dị chuyển : (diatonic đọc là đi-a-tô-ních) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nửa cung đồng chuyển : (chromatic đọc là crô-ma-tích) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc cùng tên.
- Nguyên cung dị chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nguyên cung đồng chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc cùng tên như Fa – Fa x, Xon – Xon bb hoặc 2 bậc khác tên không kề nhau : Đô# – Mib, Xon# – Xib. Trên thực tế đây là quãng ba giảm.
TD 5
a) 2 bậc cùng tên b) 2 bậc khác tên không kề nhau (= quãng 3 giảm)
7. Muốn ghi cao độ tuyệt đối của các âm thanh, người ta dùng đến khuông nhạc và khoá nhạc.
7.1. Khuông nhạc : Hiện nay người ta dùng 5 đường kẻ
song song, tạo thành 4 khe song song, tính thứ tự từ dưới lên. Trên
khuông nhạc đó, ta có 11 vị trí khác nhau, ghi được 11 bậc cơ bản.
Muốn ghi thêm, người ta dùng các dòng kẻ phụ :
7.2. Khoá nhạc : dùng để xác định tên các dấu nhạc ghi trên khuông nhạc. Khoá nhạc được ghi ở đầu mỗi khuông nhạc.
Hiện nay thường dùng 3 loại khoá chính sau :
a) Khoá Xon dòng 2 :
- Dành cho bè nữ và các đàn âm khu cao như violon, Flute, Oboe …
- Dành cho các bè nam cao và trầm : gồm khoá Xon Ricordi và khóa Xon hạ quãng 8
b) Khoá Fa dòng 4 : dành cho các giọng nam và các dàn thuộc âm khu trầm như Violoncello (cello), Contrabasso, Fagotto, Trombone …
c) Khoá Đô dòng 3 : dùng cho đàn viola.
8. Âm La mẫu có tần số 440 là âm chuẩn được đa số chấp
nhận : nó được ghi trên khuông nhạc khoá Xon 2, nằm ở khe thứ 2.
Người ta gọi đó là âm La 3, vì nó nằm trong bát độ thứ 3 của 4 bát độ
hợp ca của giọng người.
Với hai khoá Xon và Fa, chúng ta có thể xác định chính xác độ cao
tuyệt đối của các âm thanh thuộc âm vực giọng hát hợp ca trải dài trong
4 bát độ. Có những nhạc khí có thể phát ra âm thanh trầm hơn quá 1
bát độ (La – Xi – Đồ – Rê … Đô1) hoặc cao hơn 2 bát độ (Đô5 – Rê – Mi …
Đô6). Để khỏi dùng đến quá nhiều dòng kẻ phụ, ta dùng dấu chuyển độ :
- Dấu chuyển độ lên : Phải tấu âm thanh lên cao hơn 1
bát độ : Ghi số 8 ở trên dòng nhạc, ngay chỗ bắt đầu phải chuyển độ,
và thêm những vạch ngang rời song song với khuông nhạc cho đến khi
diễn tấu bình thường như cao độ ghi trên khuông nhạc (có khi người ta
viết chữ Octava đúng hơn Ottava Alta (8va Alta) ….. loco, loco báo
hiệu trở lại bình thương (TD 6a).
- Dấu chuyển độ xuống : Phải tấu âm thanh thấp hơn 1
bát độ : Ghi số 8 dưới khuông nhạc với các vạch ngang rời cho đến khi
không phải chuyển độ nữa (có khi thay bằng chữ Ottava bassa (8va
bassa) ….. loco (TD 6b)).
TD 6 : Dấu chuyển độ
a) chuyển độ lên Ottava ….. loco b) chuyển độ xuống Ottava bassa ….. loco
3 nhận xét:
Rất hay. Giao lưu học thêm nhá : CUA HANG BAN DAN PIANO TAI TPHCM
nguyenhao1954@glmai.com đã gởiEmail nhưng chưa nhận được hồi âm
Đính Chính nguyenhao1953@gmail.com Đã gởiEmai nhưng chưa nhận được hồi âm.
Đăng nhận xét